...Chỉ có trời là lớn nhất -Khổng Tử

Thứ Năm, 22 tháng 12, 2011

CÂU CHUYỆN VỀ THÁNH TÔNG ĐỒ PEDRO[*] Ở CHÂU MỸ

Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn


EDUARDO GALEANO
(1940~)


Eduardo Galeano (1940~) nhà văn Uruguay, là một trong vài cây bút Mỹ La-tinh nổi tiếng nhất trong thế giới văn chương đương đại. Ông còn là nhà phê bình, sử gia và ký giả. Những tác phẩm đặc sắc của ông, như Memoria del fuego [1982-1986, Ký ức của lửa] Las venas abiertas de América Latina [1971, Những mạch máu mở của Mỹ La-tinh], đã được dịch ra hơn 20 ngoại ngữ. Nhiều tác phẩm của Galeano hầu như vượt khỏi lối phân định thể loại văn học thông thường, vì đó là một kết hợp của ký sự, hư cấu, bình luận chính trị, tài liệu báo chí và lịch sử.
 
14 tuổi, Galeano bán bức biếm hoạ chính trị đầu tay cho tuần báo El Sol. 16 tuổi, ông xuất bản bài tiểu luận đầu tay, rồi bỏ học, và bắt đầu làm nhiều việc khác nhau để mưu sinh. 20 tuổi, ông trở thành ký giả, rồi làm tổng biên tập cho tờ Marcha , một tuần báo gây ảnh hưởng lớn về văn hoá và chính trị, với sự cộng tác của những tên tuổi quan trọng như Mario Vargas Llosa, Mario Benedetti, Manuel Maldonado Denis và Roberto Fernández Retamar. Rồi ông biên tập cho nhật báo Épocha và làm tổng biên tập của University Press (1965-1973). Cuốn Las venas abiertas de América Latina [1971, Những mạch máu mở của Mỹ La-tinh] làm Galeano trở thành một trong những tác giả được đọc nhiều nhất ở Mỹ La-tinh. Sau vụ đảo chính năm 1973, ông bị bỏ tù và trục xuất khỏi Uruguay. Sang Argentina, ông thành lập và làm tổng biên tập tạp chí văn hoá Crisis.
 
Năm 1975, Galeano đoạt giải Casa de las Américas cho cuốn tiểu thuyết La cancion de nosotros [1975, Bài hát của chúng ta]. Sau vụ đảo chính ở Argentina năm 1976, tên tuổi ông nằm trong danh sách những người bị tử hình, nên ông chạy sang Tây-ban-nha, sống ẩn dật trên vùng bờ biển Catalan và khởi sự viết Memoria del fuego [1982-1986, Ký ức của lửa], một kiệt tác gồm ba tập (1. Los nacimientos [Khai sinh]; 2. Las caras y las máscaras [Những chân dung và mặt nạ]; 3. El siglo del viento [Thế kỷ của gió]) được giới phê bình so sánh với những kiệt tác của John Dos Passos và Gabriel García Márquez. Năm 1978, ông lại một lần nữa đoạt giải Casa de las Américas cho cuốn tự truyện Días y noches de amor y de guerra [1978, Ngày và đêm của tình yêu và chiến tranh].
 
Galeano trở về quê hương Montevideo vào đầu năm 1985, và tiếp tục sáng tác và xuất bản liên tục rất nhiều cho đến hôm nay. Ngoài hai giải thưởng Casa de las Américas (1975, 1978), ông còn được trao các giải thưởng quan trọng khác như: American Book Award (1989), và Cultural Freedom Award (1999, Lannan Foundation).
 
Truyện ngắn dưới đây, “Historia del apóstol san Pedro en tierras de América”, nằm trong tập Las Palabras Andantes, với phần minh hoạ bằng tranh khắc gỗ của hoạ sĩ Jose Francisco Borges (México: Siglo XXI Editores, S.A. de C.V., 1994).

____________



Tên cướp Firmino chờ đợi, tựa người trên cây súng, trong lúc những người đạo hạnh đang cắm cúi bước lên trời mà không ai chào hỏi hắn một lời.
“Cuộc sống thế này thì chẳng ra cái trò gì cả,” kẻ đã chết nói.
Firmino không muốn đứng bên lề Thiên Đàng suốt cả một vĩnh cửu mà chẳng có ai để chuyện trò, trong khi hắn còn nghe tiếng cười của mụ vợ từ chốn trần thế văng vẳng lên. Người chiến binh già nua của sa mạc đáng được hưởng một điều gì khá hơn là cái góc lạnh cóng đáng sỉ nhục này. Hoả ngục vốn mang tiếng xấu, người ta nói hoả ngục là một tên gọi khác của trần thế, nhưng dưới chốn đó thì cửa luôn rộng mở và không khí ấm áp như ở nhà.
Tên cướp quyết định dứt khoát. Thế nhưng lúc hắn sắp nhảy một cú bất phục phản vào cái chảo dầu mênh mông nơi những kẻ có tội đang bị chiên xèo xèo, thì một phép lạ chợt xảy ra.
Phép lạ, ấy tức là những song sắt màu trắng chợt hé mở và một bộ râu bạc thò ra, rồi đến một cái đầu hói. Thánh Pedro bước ra khỏi Thiên Đàng. Vị thánh tông đồ đang tìm một chỗ tốt để quan sát trần thế, vì ở bên trong cổng thì không thể thấy gì cả.
Vị giữ cổng của Chúa Trời bước vài bước trên khối không khí vững chắc và, ngồi thụp xuống, ngài bắt đầu thổi những đám mây. Một xâu chìa khoá to tướng treo lủng lẳng nơi dây thắt lưng của ngài.
Firmino lẻn ra sau lưng ngài và, với những ngón tay êm như lụa, hắn nẫng nhẹ xâu chìa khoá, mở cổng, rồi rón rén bước vào vương quốc của những người chân chính. Khi bước vào bên trong, hắn vứt xâu chìa khoá.
Thánh Pedro, đang cúi nhìn xuống trần thế, chẳng hề hay biết.

Vị hoàng tử của các thánh tông đồ trầm tư mặc tưởng về cái khối đất lấp lánh đang trôi trong khoảng không. Ngài nhìn nó và thở dài.
Ngài đang lắng nghe một tiếng nói yếu ớt gọi ngài từ chốn xa xôi ấy. Nhưng ngài biết rõ rằng ngài không được phép trở về mặt đất. Chúa Trời không để cho ngài rời khỏi Thiên Đàng. Chúa Trời cũng không cho phép những người đánh cá của Biển Galilea[**] và ngay cả con ruột là Jesus trở về trần thế. Khi họ còn ở trên mặt đất, họ đã bị đánh đập và xua đuổi, họ đã bị treo lên những cây thập giá, họ đã bị đâm bằng những mũi dáo và để cho đổ máu. Hai ngàn năm đã trôi qua, nhưng Chúa Trời vẫn không quên điều đó.

Cái nhìn của Thánh Pedro lướt qua những biển cả, sa mạc và núi đồi, cho đến khi dừng lại ở một thung lũng nhỏ bé giữa những đỉnh đá cao vút của rặng Andes. Cái nhìn của ngài dõi xuyên qua màn đêm trên thị trấn Chimpawaylla.
Trong ngôi nhà thờ ở Chimpawaylla, có những bóng đen rung rinh dưới ánh nến.
Trên bệ thờ, cha xứ Benito đang đứng đợi người nữ tu Gloria trở về.
Cha xứ Benito mặc một tấm áo thụng mà hắn lấy trộm, và trên đầu hắn toả ra một vầng hào quang óng ánh chẳng phải của hắn.
Lòng dâng tràn một niềm giận dữ hay ganh tị, Thánh Pedro nguyền rủa những gì ngài chứng kiến.


Người nữ tu Gloria mới đến thị trấn này, còn cha xứ Benito là người vẫn ở đây xưa nay. Hắn đã sống cả đời hắn ở đây: trong phòng xưng tội này, hắn đã khoái trá lắng nghe những tội lỗi của người khác; trên bục chủ tế này, hắn đã hăm doạ những thổ dân da đỏ bằng những cơn mưa đá và hạn hán và những hình phạt thiêng liêng khác.

Ngày đầu tiên người nữ tu Gloria đến đây, hành trang của nàng chỉ vỏn vẹn có chiếc nhẫn của mẹ nàng trên ngón tay của nàng.
Lúc mẹ nàng hấp hối trên giường bệnh, bà đã đặt chiếc nhẫn của bà vào bàn tay của chồng bà. Và với hơi thở cuối cùng, bà thốt ra lời yêu cầu tối hậu rằng cha của Gloria phải thề sẽ không bao giờ ngủ với một người đàn bà nào khác trừ khi ngón tay người ấy mang vừa khít chiếc nhẫn này.
Vài ngày sau, vì tò mò hay vì đùa chơi, Gloria đã mang thử chiếc nhẫn vào ngón tay và không bao giờ cởi nó ra được nữa.
Gloria đành chạy trốn khỏi nhà mình và số phận mình. Và nàng trở thành một người nữ tu.
Vừa khoác áo dòng, nàng đã được thuyên chuyển về thị trấn Chimpawaylla.
Nàng đã đi bộ qua bao nhiêu rừng núi. Nàng đã đến nhà thờ này vào lúc bình minh, sau một hành trình dài dằng dặc, với tấm áo choàng không một vẩn bụi và gương mặt không một nét mệt nhọc.
Cô dâu mới của Chúa gõ cửa hết sức nhẹ nhàng, nhưng chỉ một thoáng chạm khẽ của ngón tay nàng cũng đủ làm cho Benito nhảy ra khỏi giường.
Hắn mở cửa và trông thấy nàng: Gloria với đôi mắt sợ sệt và hương thơm của một cơn mưa mới.
Kể từ hôm đó, Benito không thể nằm ngủ mà không mơ thấy nàng.


Người nữ tu Gloria đã quét dọn, lau chùi, giặt giũ và cạo rửa liền tay, chiến đấu với những lớp rêu phong và bụi bặm bám dày cả ngôi nhà thờ hàng thế kỷ. Giờ đây, những bộ y phục của các vị thánh toả ra mùi của ánh mặt trời.
Gloria đã lau rửa tượng Thánh Pedro vài lần, và lần nào nàng cũng ôm lấy bàn chân của ngài, rồi quỳ xuống, cầu xin ngài giúp cho ngón tay ô uế của nàng được giải thoát khỏi chiếc nhẫn oan nghiệt.

Sáng hôm nay, Benito thông báo cho nàng biết rằng vị thánh tông đồ sắp đến thăm viếng: “Khi đêm xuống, Thánh Pedro sẽ nói chuyện với con.”
Từ giây phút đó, Gloria không thể ngồi yên. Nàng đi lang thang suốt cả ngày quanh thị trấn, tìm một chút yên tĩnh cho tâm hồn. Ngây ngất trong niềm vui, nàng không thể nhận ra những lời cảnh báo. Nàng đã không lắng nghe tiếng chim paca-paca huýt lên những điềm xấu từ ngọn cây liễu, hay tiếng vịt kêu vang lời răn đe từ những dòng nước trên mặt hồ.
Trong lúc đó, Benito cởi y phục của bức tượng Thánh Pedro và bưng giấu ngài trên gác lửng. Hắn mặc áo thụng của ngài vào. Rồi hắn cạo đầu và mang vào một bộ râu làm bằng lông cừu trắng. Hắn trèo lên trên bệ thờ. Và hắn đứng yên nơi đó, bên phải cây thánh giá, bất động, chờ đợi.


Đêm xuống. Và cuối cùng, khi con chiên xinh đẹp nhất của Chúa đến gần, run rẩy, thì Thánh Pedro giơ hai cánh tay lên và nói thật dịu dàng, gần như thì thầm: “Đức Chúa Trời Toàn Năng đã ra lệnh cho ta ngủ bên cạnh con và cởi chiếc nhẫn ra cho con.”
Gloria ngất xỉu.
Nàng hồi tỉnh và cảm thấy có những ngón tay mơn trớn vầng trán nàng và ve vuốt mái tóc nàng. Tấm khăn choàng đầu màu trắng sút ra và rơi xuống.
“Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải trần truồng, cả thể xác lẫn linh hồn,” Thánh Pedro thì thầm.
“Xin tuân theo ý Chúa.”


Và như thế con gà trống cất tiếng gáy lúc nửa đêm.
Và trên đỉnh trời cao xa tắp kia, một Thánh Pedro khác lấy hai tay che mắt mình lại.
Sau đó, ngài cố gắng đứng dậy. Lưng ngài kêu răng rắc. Ngài cảm thấy xây xẩm. Miệng ngài đầy những từ ngữ bị cấm đoán.
Lưng vẫn còn lom khom, vị thánh tông đồ sờ vào phía hông đau nhói và, lúc ấy, ngài mới phát hiện rằng ngài không còn xâu chìa khoá cổng để trở vào vương quốc của Thiên Đàng.


_________________________
Chú thích của người dịch:
[*]Apóstol san Pedro (Thánh tông đồ Pedro): Trong tiếng Việt, ta thường gọi là Thánh tông đồ Phêrô.
[**]Lago de Galilea (Biển hồ Galilea): Trong tiếng Việt, ta thường gọi là Biển Galilê. Để tìm hiểu về sự tích những người đánh cá ở Biển Galilê theo chúa Giê-su, mời độc giả xem kinh thánh Mathiơ 4:18-22.
(nguồn:tienve.org)


------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét