Soạn tuồng tức là sáng tác kịch bản theo thể loại nghệ thuật tuồng (hát bội) cũng như sáng tác kịch bản chèo, cải lương, kịch nói, mỗi loại hình đều có nguyên tắc và thủ pháp riêng. Đây là công việc đầy khó khăn như Văn hào Nga M.Gorky viết: “Kịch là một loại hình khó nhất trong sáng tác văn học”. Đúng là như vậy. Nhưng, sáng tác kịch bản tuồng còn khó hơn nhiều, bởi nó phải được thể hiện trong một cấu trúc vô cùng nghiêm ngặt trong nguyên tắc cách điệu, ước lệ về biểu diễn và ngôn ngữ lại bằng thi ca cổ điển và dân gian kết hợp. Cũng có thể gọi một kịch bản tuồng là một tác phẩm thơ trường thiên, nếu ta tách ra từng bài hát thì có tới hàng trăm bài thơ, trong một kịch bản. Cũng vì thế mà không phải nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch nào cũng viết được tuồng. Suốt cả mấy thế kỷ 17, 18, 19 tuy có rất nhiều trí thức sáng tác tuồng, với hàng trăm vở nhưng chỉ có hơn mươi vở tồn tại trên sân khấu đến hôm nay, tiêu biểu như Sơn Hậu, Triệu Đình Long, Đào Phi Phụng, Tam nữ đồ vương… hầu hết đều không ghi tên tác giả (có lẽ do chính sách kiểm duyệt quá khắt khe thời bấy giờ) chỉ đến Đào Tấn (cuối thế kỷ 19) mới sáng tác được nhiều vở tuồng hay và sau Đào Tấn là Nguyễn Hiển Dĩnh, Phan Xuân Thân, Ưng Bình Thúc Giạ Thị rồi mãi tới đầu thế kỷ 20 mới xuất hiện bút danh Tống Phước Phổ (giải thưởng Hồ Chí Minh). Tiếp theo Tống Phước Phổ trong thời kỳ sau CM tháng 8 (1945), tuy vẫn có nhiều soạn giả tuồng nhưng rất hiếm tác phẩm hay theo đúng nghĩa là kịch bản tuồng như của Đào Tấn và thầy học của ông là Nguyễn Diêu.Vì vậy gần một thế kỷ qua, Đào Tấn vẫn là một thiên tài sáng tác tuồng cùng với những công lao to lớn của ông trong lý luận tuồng, đạo diễn tuồng và đào tạo tuồng mà ông được suy tôn là “Hậu tổ tuồng”.